Scholar Hub/Chủ đề/#động mạch quay/
Động mạch quay (arteria radialis) là một nhánh chính của động mạch cánh tay, cung cấp máu cho cẳng tay và bàn tay. Nó khởi đầu ở hố khuỷu, chạy dọc theo phía ngoài cẳng tay và vào lòng bàn tay, tạo ra cung động mạch gan tay sâu. Động mạch quay chủ yếu nằm gần bề mặt da, dễ dàng cảm nhận nhịp mạch tại cổ tay. Nó không chỉ tham gia cung cấp máu mà còn quan trọng trong y khoa để đo nhịp tim, huyết áp, và được sử dụng trong các can thiệp y khoa. Bệnh lý liên quan có thể bao gồm hẹp động mạch và tổn thương do chấn thương hoặc tự miễn.
Động mạch quay: Khái niệm và Cấu trúc
Động mạch quay (arteria radialis) là một trong những nhánh chính của động mạch cánh tay, chuyên cung cấp máu cho cẳng tay và bàn tay. Đây là một trong hai nhánh tận của động mạch cánh tay tại hố khuỷu, nằm phía bên ngoài cẳng tay khi nhìn từ phía trước.
Vị trí và Hành trình
Động mạch quay bắt đầu từ hố khuỷu ở khoảng ngang mức nếp khuỷu, chạy dọc theo phía bên ngoài trước cẳng tay và tiếp tục đi qua phía dưới các gân cơ dạng dài và duỗi ngón cái dài để vào lòng bàn tay, tạo ra cung động mạch gan tay sâu. Trên đường đi, động mạch quay chạy dọc theo bên trong của xương quay và chủ yếu là nông (nằm gần bề mặt da) ở phần lớn hành trình của nó, giúp dễ dàng bắt mạch tại vị trí cổ tay.
Chức năng của Động mạch Quay
Chức năng chính của động mạch quay là cung cấp máu giàu oxy cho các cấu trúc của cẳng tay và bàn tay. Ngoài ra, đây cũng là một vị trí phổ biến để đo nhịp mạch quay, một phương pháp quan trọng trong thăm khám lâm sàng để đánh giá tình trạng tuần hoàn.
Tầm quan trọng trong Y khoa
Động mạch quay có vai trò quan trọng trong các thủ thuật y khoa. Đo nhịp mạch quay được sử dụng rộng rãi để theo dõi nhịp tim và huyết áp. Hơn nữa, động mạch này thường được chọn để đặt ống thông động mạch trong các can thiệp xâm lấn như mạch vành qua da.
Các Bệnh lý Liên quan
Một số rối loạn có thể ảnh hưởng đến động mạch quay bao gồm hẹp động mạch, tổn thương do chấn thương hoặc do các bệnh lý tự miễn. Việc chẩn đoán và điều trị sớm các tình trạng này là cần thiết để duy trì chức năng tuần hoàn hiệu quả.
Kết luận
Động mạch quay không chỉ đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp máu cho cẳng tay và bàn tay mà còn là công cụ quan trọng trong y khoa để đánh giá tình trạng sức khỏe tim mạch. Sự hiểu biết về cấu trúc và chức năng của động mạch quay góp phần vào tiến bộ trong cả chẩn đoán và điều trị y khoa.
Tiếp cận động mạch quay so với động mạch đùi trong can thiệp mạch vành qua da: Ý nghĩa đối với các biến chứng mạch máu và chảy máu Dịch bởi AI Current Cardiology Reports - Tập 14 - Trang 502-509 - 2012
Kể từ khi ra đời cách đây hơn hai thập kỷ, việc tiếp cận động mạch quay trong can thiệp thông tim và can thiệp qua da đã phát triển thành một phương pháp linh hoạt và dựa trên chứng cứ nhằm giảm thiểu rủi ro chảy máu tại vị trí tiếp cận và các biến chứng mạch máu mà không làm giảm phạm vi kỹ thuật hoặc tỷ lệ thành công liên quan đến các can thiệp mạch vành qua da hiện đại. Các nghiên cứu sớm đã cho thấy tỷ lệ biến chứng mạch máu và chảy máu tại vị trí tiếp cận giảm khi tiến hành can thiệp bằng động mạch quay nhưng lại kèm theo chi phí tăng tỷ lệ chuyển tiếp tại vị trí tiếp cận và giảm tỷ lệ thành công của thủ thuật. Dữ liệu hiện đại cho thấy rằng mặc dù tỷ lệ chảy máu lớn khi thực hiện can thiệp bằng động mạch đùi ở các nhóm bệnh nhân có nguy cơ tiêu chuẩn đã giảm đáng kể theo thời gian, phương pháp tiếp cận động mạch quay vẫn duy trì được những lợi thế đáng kể nhờ giảm thiểu các biến chứng mạch máu, thời gian nằm viện và nâng cao sự thoải mái của bệnh nhân, cũng như sự ưa thích của bệnh nhân đối với phương pháp này so với phương pháp động mạch đùi, trong khi vẫn đảm bảo tỷ lệ thành công của thủ thuật. Các sự kiện tim mạch bất lợi lớn và chảy máu là thấp nhất khi áp dụng phương pháp tiếp cận động mạch quay, khi các thủ thuật được thực hiện tại các trung tâm chuyên sâu về động mạch quay với các bác sĩ có kinh nghiệm, hoặc trong bối cảnh nhồi máu cơ tim ST đoạn nâng cao. Sự lựa chọn thuốc chống đông trong quá trình thủ thuật có ảnh hưởng khác nhau đến chảy máu tại vị trí tiếp cận trong PCI bằng động mạch quay so với động mạch đùi; tuy nhiên, chảy máu không liên quan đến vị trí tiếp cận vẫn là một yếu tố quan trọng góp phần vào hiện tượng chảy máu lớn ở cả hai nhóm. Mặc dù có rất nhiều dữ liệu hỗ trợ, việc áp dụng kỹ thuật tiếp cận động mạch quay làm chiến lược mặc định trong can thiệp thông tim tại Hoa Kỳ vẫn chậm hơn so với nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, các xu hướng gần đây cho thấy rằng sự quan tâm và áp dụng kỹ thuật này tại Hoa Kỳ đang gia tăng với tốc độ nhanh chóng hơn so với trước đây.
#tiếp cận động mạch quay #can thiệp động mạch vành qua da #biến chứng mạch máu #chảy máu #phương pháp can thiệp
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM ĐƯỜNG THÔNG ĐỘNG TĨNH MẠCH BÊN TẬN Ở CẲNG TAY TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲMục tiêu: Khảo sát đặc điểm siêu âm đường thông động mạch quay - tĩnh mạch đầu sau mổ 2 tuần và 3 tuần trên bệnh nhân suy thận mạn có chỉ định lọc máu chu kỳ.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 34 bệnh nhân suy thận mạn có chỉ định lọc máu chu kỳ, được mổ tạo thông nối động mạch quay - tĩnh mạch đầu bên tận ở cẳng tay, được siêu âm sau mổ 2 tuần và 3 tuần từ tháng 4/2016 đến tháng 7/2017, tại khoa Thận nhân tạo bệnh viện Trung Ương Huế.Kết quả: Độ tuổi trung bình của bệnh nhân 45,79 ± 14,59 tuổi; nam chiếm 47,10%, nữ chiếm 52,90%. Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường là 5,88%. Đường kính tĩnh mạch dẫn lưu sau mổ 2 tuần là 4,96 ± 0,88 mm và sau 3 tuần là 5,40 ± 0,99 mm (p < 0,05); lưu lượng tĩnh mạch dẫn lưu sau mổ 2 tuần và 3 tuần là 531,33 ± 162,40 ml/p và 666,56 ± 260 ml/p (p < 0,05). Tỷ lệ đường thông động tĩnh mạch trưởng thành sau mổ 3 tuần là 82,35%. Bất thường đường thông động tĩnh mạch (Đ-TM) gặp nhiều nhất là hẹp ở tĩnh mạch dẫn lưu và miệng nối.Kết luận: Siêu âm giúp đánh giá lưu lượng qua thông nối Đ-TM và đồng thời phát hiện một số nguyên nhân sớm gây bất thường thông nối Đ-TM, giúp các bác sĩ lâm sàng theo dõi và có định hướng điều trị cho bệnh nhân.
#Thông nối động mạch quay - tĩnh mạch đầu #lọc máu chu kỳ.
TÍNH KHẢ THI CỦA CÁCH TIẾP CẬN QUA ĐOẠN XA ĐỘNG MẠCH QUAY TRÁI TRONG CHỤP VÀ CAN THIỆP MẠCH VÀNHĐặt vấn đề: Chụp và can thiệp mạch vành qua đoạn xa động mạch quay trái (hõm lào) là phương pháp tiếp cận mạch máu mới với những lợi ích từ việc tiếp cận từ động mạch (ĐM) quay trái và giảm những bất lợi do tư thế của bệnh nhân. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tính khả khi của chụp và can thiệp mạch vành qua đoạn xa ĐM quay trái vẫn còn thiếu dữ liệu. Mục tiêu: Xác định tính khả thi và an toàn của cách tiếp cận qua đoạn xa ĐM quay trái trong chụp và can thiệp mạch vành. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 32 bệnh nhân được tiếp cận qua hõm lào trái tại bệnh viện Vinmec Central Park từ 3/2021 đến 12/2021. Chúng tôi ghi nhận thông tin bệnh nhân, thông tin thủ thuật và ghi nhận biến chứng sau thủ thuật. Kết quả: Trong số 32 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 66,7 ± 10,6 với nam giới chiếm 78%, kích thước ĐM quay trái là 2,81 ± 0,36 mm và đoạn xa ĐM quay trái là 2,53 ± 0,27 mm. Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ tiếp cận thành công là 93,8%. Có 2 bệnh nhân bị co thắt mạch cần chuyển vị trí tiếp cận qua đoạn gần động mạch quay trái và động mạch quay phải đều thành công. Thời gian đâm kim trung bình: 5,37 ± 3,7 phút và tất cả bệnh nhân đều được chụp và can thiệp mạch vành thành công mà không thay đổi vị trí tiếp cận. Tỷ lệ biến chứng tụ máu mức độ EASY I là 13,3% và không cần can thiệp ngoại khoa, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào biến chứng xuất huyết hay tụ máu mức độ EASY II trở lên. Kết luận: Tiếp cận chụp và can thiệp mạch vành qua đoạn xa động mạch quay trái có tính khả thi và an toàn.
#đoạn xa động mạch quay trái #hõm lào #tiếp cận mạch máu #chụp mạch vành #can thiệp mạch vành
KHẢO SÁT VÙNG ĐO MỨC BÃO HÒA OXY TRONG MÁU ĐỘNG MẠCH THEO NHỊP ĐẬP (SpO2) TỐT NHẤT TRÊN CỔ TAY, VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SẮC TỐ DA - KÍCH THƯỚC CỔ TAY - GIỚI TÍNH ĐẾN KẾT QUẢ ĐO, SỬ DỤNG ĐẦU ĐO PHẢN XẠViệc đo mức bão hòa oxy trong máu động mạch theo nhịp đập (SpO2) tại cổ tay là phương pháp khá mới hiện nay, và việc xác định vùng đo SpO2 tốt nhất trên cổ tay gần như là yêu cầu cấp bách cho vấn đề mới này. Bài báo này sẽ cung cấp các kết quả khảo sát thực nghiệm có được về việc xác định vùng đo SpO2 tốt nhất trên cổ tay cũng như xem xét sự ảnh hưởng của sắc tố da tại cổ tay, kích thước cổ tay và giới tính đến biên độ tín hiệu thu được từ cảm biến. Bo mạch đo SpO2 chuẩn của hãng Texas Instruments và cảm biến phản xạ đo SpO2 chuẩn của hãng Covidien được sử dụng cho tất cả các cuộc khảo sát này. Kết quả khảo sát cho thấy rằng: Vùng cổ tay có đường động mạch quay nằm gần khớp cổ tay - đốt bàn tay ngón cái cho tín hiệu thu được với biên độ lớn nhất; Cổ tay có kích thước nhỏ và có sắc tố da sáng sẽ cho tín hiệu thu được với biên độ lớn hơn.
#đo SpO2 #phản xạ #SpO2 tại cổ tay #sắc tố da #kích thước cổ tay #giới tính #động mạch quay
An toàn và khả thi của phương pháp tiếp cận xuyên động mạch quay cho các can thiệp nội tạng ở bệnh nhân giảm tiểu cầu Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 39 - Trang 676-682 - 2015
Phương pháp tiếp cận xuyên động mạch quay (TRA) đã cho thấy tỷ lệ độc hại thấp hơn và giảm các biến chứng chảy máu so với phương pháp tiếp cận xuyên động mạch đùi. Nghiên cứu này đánh giá độ an toàn và tính khả thi của TRA ở bệnh nhân giảm tiểu cầu thực hiện các can thiệp nội tạng. Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu là những người đã trải qua các can thiệp nội tạng qua động mạch quay với số lượng tiểu cầu nhỏ hơn hoặc bằng 50,000/µL. Các biến số kết quả bao gồm thành công kỹ thuật, vị trí tiếp cận, chảy máu, truyền máu, và các biến chứng thần kinh. Từ ngày 1 tháng 7 năm 2012 đến ngày 31 tháng 5 năm 2015, tổng cộng có 1353 can thiệp ngoại vi thông qua TRA được thực hiện, trong đó có 85 thủ tục được thực hiện trên 64 bệnh nhân (tuổi trung bình 62,2 năm) có số lượng tiểu cầu <50,000/µL (trung vị 39,000/µL). Các can thiệp bao gồm hóa tắc mạch (n = 46), liệu pháp xạ trị nội bộ chọn lọc (n = 30), và tắc mạch nội tạng (n = 9). Tỷ lệ thành công kỹ thuật đạt 97,6 % với hai trường hợp co thắt mạch nặng cần phải thực hiện chuyển tiếp sang động mạch đùi bên cùng phía. Không có biến cố nghiêm trọng nào về vị trí tiếp cận, chảy máu, hoặc biến chứng thần kinh nào xảy ra trong vòng 30 ngày. Xuất hiện huyết tụ nhỏ tại vị trí tiếp cận ở năm trường hợp (5,9 %) và được điều trị bảo tồn trong tất cả các trường hợp. Truyền tiểu cầu trước thủ thuật được thực hiện ở 23 (27,1 %) trường hợp. Không có sự khác biệt thống kê có ý nghĩa về vị trí tiếp cận hay biến chứng chảy máu giữa nhóm đã truyền và nhóm không truyền. Các can thiệp nội tạng xuyên động mạch quay ở bệnh nhân giảm tiểu cầu là khả thi và an toàn, có thể không cần truyền tiểu cầu.
#transradial access #thrombocytopenia #visceral interventions #safety #feasibility
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CỦA ĐƯỜNG VÀO ĐỘNG MẠCH QUAY VÀ ĐỘNG MẠCH ĐÙI TRONG NÚT MẠCH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GANĐặt vấn đề: Can thiệp nút mạch hóa chất qua đường động mạch quay đang là một hướng tiếp cận mới trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ thành công, những lợi ích và biến chứng của can thiệp nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng đường động mạch quay so với đường động mạch đùi. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang hồi cứu. Từ 1/2019 đến 8/2021, tiến hành 197 thủ thuật can thiệp nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào cho 132 bệnh nhân (96 ca đường động mạch đùi và 97 ca đường động mạch quay). Kết quả: Tỉ lệ thành công của đường vào ĐMQ trong NMHC điều trị UTBMTBG tương đương đường vào ĐMĐ, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (100% và 99%; p=0,497). Tỉ lệ các biến chứng mạch máu tại chỗ của đường vào ĐMQ thấp hơn đường vào ĐMĐ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thông kê (1% và 3,1%; p=0,368). Thời gian thủ thuật, thời gian chiếu tia, liều tia ở nhóm có đường vào ĐMQ đều thấp hơn nhóm có đường vào ĐMĐ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng đường động mạch quay có tỉ lệ thành công, biến chứng cũng như các đặc điểm kỹ thuật tương đương đường vào động mạch đùi. Với những lợi ích và sự thoải mái cho bệnh nhân đã được chứng minh, đường vào động mạch quay hoàn toàn khả thi và có thể ứng dụng trong can thiệp nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào gan.
#Động mạch quay #nút mạch hóa chất #ung thư biểu mô tế bào gan.
So sánh sự hướng dẫn của hình ảnh quan học đồng bộ và siêu âm nội mạch trong việc can thiệp tán sỏi quay cho các tổn thương động mạch vành có vôi hóa Dịch bởi AI BMC Cardiovascular Disorders - Tập 21 - Trang 1-9 - 2021
Mục tiêu của nghiên cứu này là so sánh hiệu quả và kết quả của phương pháp tán sỏi quay (RA) được hướng dẫn bằng hình ảnh quan học đồng bộ (OCT) với phương pháp tán sỏi quay được hướng dẫn bằng siêu âm nội mạch (IVUS) trong điều trị các tổn thương động mạch vành có vôi hóa. Dữ liệu về các tổn thương động mạch vành có vôi hóa được điều trị bằng RA và đã trải qua OCT hoặc IVUS từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2019 tại một trung tâm duy nhất đã được phân tích hồi cứu. Hiệu quả và kết quả giữa nhóm RA được hướng dẫn bằng OCT và nhóm RA được hướng dẫn bằng IVUS đã được so sánh.
Tổng cộng có 33 tổn thương ở 32 bệnh nhân nhận được RA hướng dẫn bằng OCT và 51 tổn thương ở 47 bệnh nhân nhận được RA hướng dẫn bằng IVUS. Không có sự khác biệt đáng kể nào giữa nhóm RA hướng dẫn bằng OCT và nhóm RA hướng dẫn bằng IVUS về các đặc điểm lâm sàng cơ bản. So sánh các đặc điểm quy trình và tổn thương giữa hai nhóm, khối lượng thuốc cản quang lớn hơn [(348,8 ± 110,6) ml so với (275,2 ± 76,8) ml, P = 0,002] và việc sử dụng bóng chấm điểm thường xuyên hơn (33,3% so với 3,9%, P = 0,001) sau khi thực hiện RA và trước khi đặt stent trong nhóm RA hướng dẫn bằng OCT. So sánh các phát hiện hình ảnh nội mạch giữa hai nhóm, độ mở của stent lớn hơn đáng kể trong nhóm RA hướng dẫn bằng OCT ([82 ± 8]% so với [75 ± 9]%, P = 0,001). Cả hai nhóm đều đạt được thành công quy trình ngay lập tức. Không có sự khác biệt đáng kể nào về tỷ lệ gặp biến chứng. Mặc dù không có sự khác biệt thống kê trong tỷ lệ xuất hiện của MACE sau 1 năm giữa nhóm RA hướng dẫn bằng OCT và nhóm RA hướng dẫn bằng IVUS (3,1% so với 6,4%, P = 0,517), không có trường hợp tử vong do tim mạch, tái can thiệp mạch vành (TVR) và huyết khối stent nào xảy ra trong nhóm RA hướng dẫn bằng OCT. RA hướng dẫn bằng OCT so với RA hướng dẫn bằng IVUS trong điều trị các tổn thương động mạch vành có vôi hóa dẫn đến độ mở stent tốt hơn và có thể cải thiện tiên lượng bệnh.
#tán sỏi quay #hình ảnh quan học đồng bộ #siêu âm nội mạch #tổn thương động mạch vành #vôi hóa
Tần suất tắc nghẽn động mạch quay sau khi thông tim sử dụng băng nén khí qua đường quay Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 13 - Trang 1-4 - 2020
Tắc nghẽn động mạch quay là một biến chứng thầm lặng của phương pháp tiếp cận qua động mạch quay trong thủ thuật thông tim, có thể gây ra các vấn đề trong các thủ thuật qua đường quay sau này ở những bệnh nhân thực hiện thông tim. Việc sử dụng băng nén qua đường quay giúp giảm thiểu các biến chứng mạch máu và cung cấp khả năng cầm máu nhanh chóng, mạnh mẽ và hiệu quả. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tần suất tắc nghẽn động mạch quay ở 180 bệnh nhân thực hiện thông tim và thông động mạch vành qua đường quay. Độ tuổi trung vị của nhóm nghiên cứu là 58 tuổi. Tắc nghẽn động mạch quay được phát hiện ở 14 (7,8%) bệnh nhân. Khi phân loại theo nhóm tuổi và giới tính, không có sự khác biệt đáng kể về tắc nghẽn động mạch quay giữa các nhóm tuổi và giới tính. Ngoài ra, các bệnh nền như tiểu đường, tăng huyết áp và hút thuốc cũng làm tăng nguy cơ tắc nghẽn động mạch quay, tuy nhiên, điều này chỉ được ghi nhận là có ý nghĩa đối với bệnh tiểu đường. Do đó, chúng tôi kết luận rằng băng nén khí qua đường quay là một chiến lược rất hữu ích và an toàn để ngăn ngừa tắc nghẽn động mạch quay.
#tắc nghẽn động mạch quay #thông tim #băng nén khí #biến chứng mạch máu
Nghiên cứu lý thuyết, mô hình hóa và hiện thực hóa các con quay hồi chuyển cộng hưởng với đầu ra quang học Dịch bởi AI SENSORS, 2002 IEEE - Tập 2 - Trang 1069-1074 vol.2
Nghiên cứu lý thuyết và thiết kế một con quay hồi chuyển cộng hưởng vi mô được trình bày trong bài viết này. Một mô hình điện - cơ học tuyến tính của con quay hồi chuyển đã được phát triển, cùng với các tính toán về các tham số cơ học và điện. Công nghệ CMOS tiêu chuẩn đã được xem xét trong việc thiết kế thiết bị vi mô, từ đó cho phép tích hợp mạch điện để điều chỉnh tín hiệu đầu ra. Một lớp multilayer photonic band gap (PBG) mới, có tên gọi là "kim loại trong suốt", được phủ lên bề mặt khối lượng chứng nhận lơ lửng với mục đích thu được một phép đo quang học của chuyển động vuông góc với mặt phẳng của thiết bị. Cấu trúc quang học này, được phủ lên khối lượng chứng nhận của con quay hồi chuyển, thay đổi các thuộc tính truyền dẫn của nó tùy thuộc vào khoảng cách không khí với một tấm cố định được gắn lên die. Những thay đổi trong năng lượng được truyền qua khoang quang học này cho phép đo chuyển động vuông góc với độ nhạy rất cao so với các phương pháp cổ điển. Ngoài ra, một đầu ra điện dung có thể được xem xét bằng cách phủ một lớp kim loại dày, thay vì lớp chồng lên, cả trên tấm di động và tấm cố định. Một so sánh về độ nhạy lý thuyết được thảo luận cùng với mô tả về hiện thực hóa IC đầu tiên.
#Cộng hưởng #Con quay hồi chuyển #Cảm biến quang học #Mô hình hóa thiết bị bán dẫn #Công nghệ CMOS #Đo chuyển động #Thiết kế tín hiệu #Mạch điện #Môi trường không đồng nhất #Băng tần quang
Tăng sinh của các động mạch quay và trụ sau tổn thương thần kinh cánh gà Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 250 - Trang 617-626 - 1987
Việc tổn thương thần kinh của các động mạch quay và trụ ở gà nhà trong giai đoạn phát triển và trưởng thành đã được thực hiện bằng cách cắt một bên đám rối thần kinh cánh tay. Sau tám tuần, các động mạch bị tổn thương thần kinh và các động mạch ở cánh bên đối diện đã được kiểm tra bằng kính hiển vi ánh sáng và kính hiển vi điện tử để xác định ảnh hưởng của tổn thương thần kinh đến cấu trúc động mạch. Ở những con gà đang phát triển, diện tích của lớp giữa trong động mạch quay và trụ lần lượt đã tăng 29% và 25% sau khi tổn thương thần kinh. Số lượng lớp cơ trơn cũng đã tăng đáng kể 16% (đối với động mạch quay) và 14% (đối với động mạch trụ), nhưng không thấy có sự biến đổi đáng kể nào trong tỷ lệ thành mạch/lòng mạch của cả hai động mạch đang phát triển. Ở những con gà trưởng thành, diện tích lớp giữa đã tăng 93% (đối với động mạch quay) và 32% (đối với động mạch trụ) sau khi tổn thương thần kinh, và số lượng lớp tế bào cơ trơn tăng 39% (đối với động mạch quay) và 11% (đối với động mạch trụ). Cũng có sự gia tăng tỷ lệ thành mạch/lòng mạch lên tới 64% (đối với động mạch quay) và 92% (đối với động mạch trụ). Những kết quả này chỉ ra rằng đã xảy ra hiện tượng tăng sinh của tế bào cơ trơn trong đáp ứng với tổn thương thần kinh. Phân tích DNA bằng dòng chảy của các động mạch đang phát triển cũng chỉ ra rằng sự gia tăng thể tích tế bào cơ là kết quả của sự phân chia tế bào (không phải là đa bội) vì không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy giữa các động mạch đối chứng và động mạch bị tổn thương thần kinh ở bất kỳ giai đoạn nào của chu kỳ tế bào.
#động mạch quay #động mạch trụ #tổn thương thần kinh #tăng sinh cơ trơn #gà nhà